Trước yêu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam, ngày 22/12/1944, tại khu rừng nằm giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình (nay là xã Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng), Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập gồm 34 chiến sĩ, biên chế thành 3 tiểu đội, chỉ sau vài ngày thành lập, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã mưu trí, táo bạo hạ đồn Phai Khắt (ngày 25/12/1944) và đồn Nà Ngần (ngày 26/12/1944). Trên cơ sở của cuộc chiến tranh Nhân dân vĩ đại, từ một lực lượng nhỏ bé, trang bị vũ khí thô sơ đã vươn lên thành một đội quân hùng hậu, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, gắn bó với Nhân dân, tô đậm truyền thống vẻ vang của Quân đội Việt Nam anh hùng, theo đúng lời Bác Hồ, người cha của các lực lượng vũ trang Việt Nam đã dạy: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng...”
.png)
Các chiến sỹ vệ quốc quân và Nhân dân Thủ đô Hà Nội chiến đấu giữ từng căn nhà, góc phố trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến. Ảnh tư liệu
Ngày 19/12/1946, trước hành động leo thang xâm lược của thực dân Pháp, trong thời khắc lịch sử của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Đó là tiếng gọi của non sông, đất nước, khơi dậy mạnh mẽ truyền thống anh hùng bất khuất, cả nước đứng lên chiến đấu bằng sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ của người Việt Nam với một ý chí “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, một thái độ chính trị dứt khoát và kiên định, nhắc nhở chúng ta rằng: “Không có nỗi đau nào bằng nỗi đau mất nước, không có nỗi nhục nào bằng nỗi nhục nô lệ. Nhân dân Việt Nam sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ quyền sống thiêng liêng của dân tộc, quyết không chịu trở lại với cuộc đời nô lệ tăm tối! Một khi Tổ quốc bị lâm nguy, thì không có gì quan trọng bằng Tổ quốc, chúng ta sẵn sàng đánh đổi tất cả, hy sinh tất cả cho Tổ quốc”.
Hơn hai mươi năm sau, khi đất nước đang chịu cảnh bị đế quốc xâm lăng, thì tinh thần dân tộc trong mỗi người dân Việt Nam lại sôi sục, tinh thần đó đã làm nên một chiến công chói lọi trong lịch sử dân tộc. Vào thời điểm năm 1972, Mỹ đã đẩy tính ác liệt của cuộc chiến tranh ở Việt Nam lên đến đỉnh điểm, thực hiện chiến dịch tấn công bằng pháo đài bay B52 đánh phá miền Bắc Việt Nam. Với 12 ngày đêm (cuối tháng 12/1972) quân và dân miền Bắc đã hạ thủ 81 máy bay các loại, trong đó có 34 pháo đài bay B52, đồng thời đã đánh gục ý đồ của Mỹ, mở đường rộng lớn cho ký kết Hiệp định Paris về Việt Nam vào ngày 27/01/1973. Chiến dịch “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” năm 1972 là đỉnh cao của sự đối đầu quân sự giữa đế quốc Mỹ, đặc biệt là lực lượng không quân với các lực lượng cách mạng ở Việt Nam khi đó. Nó là nấc thang cuối cùng của sự ngoan cố và tội ác, bắt buộc quân Mỹ phải ra khỏi miền Nam Việt Nam, đồng thời tạo tiền đề cho giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Những dấu ấn sự kiện trong tháng 12/1972 đã minh chứng cho khát vọng của một dân tộc Việt Nam anh hùng bất khuất, sẵn sàng đứng lên chống lại và giành chiến thắng trước bất kỳ một thế lực ngoại xâm nào để bảo vệ non sông, đất nước, vì Hòa bình - Độc lập - Tự do và Hạnh phúc của dân tộc.
Nguyễn Đức – Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy